Vấn đề đặt ra:
Phòng chống thiên tai là một lĩnh vực đa ngành, có sự tham gia quản lý và thực hiện của nhiều bộ, ngành, địa phương. Hơn nữa, đây cũng là một công tác có một chu trình dài từ hoạt động chuẩn bị, đến ứng phó và khắc phục hậu quả của thiên tai. Mỗi hoạt động lại có thể bao gồm nhiều nhiệm vụ và mỗi nhiệm vụ lại có thể cần sự tham gia chỉ đạo, điều hành và phối hợp thực hiện của nhiều bộ, ngành, địa phương.
Đơn cử như hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức và pháp luật về phòng chống thiên tai. Hoạt động này là một nhiệm vụ thường xuyên nhưng được chú trọng thực hiện từ giai đoạn phòng ngừa để xây dựng năng lực và nâng cao nhận thức của cộng đồng. Để thực hiện hoạt động này một cách hiệu quả cần có sự tham gia xây dựng nội dung tuyên truyền với từng loại hình thiên tai cụ thể.
- Với những loại hình thiên tai có liên quan đến nước, trách nhiệm xây dựng nội dung thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Đối với động đất và sóng thần, trách nhiệm xây dựng nội dung thuộc về Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
- Với cách thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cũng cần có sự tham gia và xác định trách nhiệm của nhiều bộ, ngành, địa phương khác nhau. Bộ Giáo dục Đào tạo có trách nhiệm lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào chương trình giáo dục các cấp.
- Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung. Các chính quyền địa phương chịu trách nhiệm thực hiện công tác này tại địa bàn của mình.
- Đồng thời, để công tác này được hiệu quả trách nhiệm của cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức về Phòng chống thiên tai cũng cần được xác định.
Như vậy, chỉ với một nhiệm vụ nhỏ thuộc hoạt động phòng ngừa cũng có thể liên quan tới quyền và trách nhiệm cá nhân, tổ chức và nhiều cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương. Các chủ thể này cũng có thể còn có quyền và trách nhiệm tại các nội dung khác trong hoạt động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả.
Một số nội dung chính sách chính được đề cập trong dự án
- Phân công trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân, các cơ quan Bộ, ngành chính chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ trong chu trình phòng chống thiên tai, cụ thể: từ Điều 13 đến Điều 33 và Điều 35.
- Quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, dân sự và tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam, cụ thể: từ điều 36 đến Điều 38.
- Quyền và trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, cụ thể: từ Điều 39 đến Điều 44.
2. Công tác phòng chống thiên tai thực hiện theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, đồng thời huy động mọi nguồn lực của cộng đồng, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia.
Vấn đề đặt ra:
Công tác phòng chống thiên tai hiện nay chủ yếu cho Nhà nước thực hiện. Nhà nước đã chú trọng đầu tư kinh phí cho công tác phòng chống thiên tai. Cụ thể là đầu tư ngân sách cho các địa phương để xây dựng, tu bổ đê điều và hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Do vậy, người dân còn chưa thực sự chủ động thực hiện phòng chống thiên tai và còn trông chờ vào sự trợ giúp của nhà nước. Hiện tượng chủ quan vẫn còn xảy ra, các biện pháp phòng ngừa cần thiết chưa được thực hiện triệt làm gia tăng rủi ro khi thiên tai, đồng thời gây khó khăn cho công tác ứng phó kịp thời, hiệu quả. Người dân chưa nhận thức được vai trò và các trách nhiệm cụ thể của chính mình trong quá trình phòng chống thiên tai.
Để ứng phó với thiên tai hiệu quả, việc chủ động phòng ngừa và ứng phó của người dân và cộng đồng tại khu vực xảy ra thiên tai là vô cùng quan trọng. Bởi nếu chỉ trông chờ và dựa vào sự trợ giúp từ bên ngoài, việc ứng phó thiên tai có thể không kịp thời, do vậy có thể dẫn đến sự thiếu hiệu quả, làm trầm trọng thêm hậu quả do thiên tai gây ra.
Một số nội dung chính sách chính được đề cập trong dự án
Nguồn tài chính cho hoạt động phòng chống thiên tai bao gồm:
a. Ngân sách nhà nước;
b. Quỹ đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
c. Quỹ Phòng chống thiên tai;
d. Nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Quỹ Phòng chống thiên tai
a. Quỹ Phòng chống thiên tai là quỹ do địa phương quản lý.
b. Quỹ Phòng chống thiên tai có nguồn thu từ đóng góp bắt buộc của tổ chức, cá nhân theo quy định của Chính phủ và hỗ trợ tự nguyện khác.
c. Quỹ Phòng chống thiên tai được sử dụng để hỗ trợ hoạt động phòng chống thiên tai.
d. Chính phủ quy định việc thành lập, cơ chế đóng góp, miễn giảm, quản lý và sử dụng Quỹ Phòng chống thiên tai.
3. Nội dung phòng chống thiên tai phải được lồng ghép trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng lĩnh vực, quốc gia.
Vấn đề đặt ra:
Nhằm đáp ứng sự quan tâm ngày càng tăng đối với vấn đề giảm nhẹ rủi ro thiên tai, các văn kiện quốc tế như Khung Hành động Hyogo và Hiệp định AADMER đã khuyến nghị các quốc gia lồng ghép nội dung giảm nhẹ rủi ro thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại mỗi quốc gia nhằm nâng cao khả năng phục hồi sau thiên tai ở các nước đang phát triển. Trong Luật của các quốc gia trên thế giới như Indonesia, Pakistan và Philippines đều đề cập đến việc lồng ghép nội dung giảm nhẹ rủi ro thảm họa vào kế hoạch phát triển theo một số cách thức khác nhau. Trung Quốc gần đây cũng đã ban hành một quy định mới về các thảm họa khí tượng trong đó yêu cầu thực hiện việc lồng ghép các khía cạnh của quản lý rủi ro thảm họa vào chương trình dạy học, từ đó các học sinh có thể được dạy cách làm thế nào để tự bảo vệ bản thân và những người khác khi xảy ra thảm họa.
Trong khi đó, tại Việt Nam đa số các văn bản pháp luật đã có quy định về xây dựng kế hoạch, phương án phòng chống thiên tai nhưng ít văn bản quy định phải đưa kế hoạch này thành một bộ phận của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước và địa phương. Các khuôn khổ pháp lý này, chưa toàn diện và đầy đủ như các khung pháp luật quốc tế.
Một số nội dung chính sách chính được đề cập trong dự án
Theo quy định tại Điều 4 của Dự thảo Luật về Nguyên tắc cơ bản trong phòng chống thiên tai thì: Nội dung phòng chống thiên tai phải được lồng ghép trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, bộ, ngành, địa phương.
Ngoài ra, nội dung của việc lồng ghép được cụ thể hóa tại Điều 17:
1. Quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, kinh tế-xã hội của các bộ, ngành, địa phương phải có nội dung phòng chống thiên tai để đảm bảo tổ chức sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp và các hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp với đặc thù thiên tai của từng vùng, địa phương.
2. Trách nhiệm lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, kinh tế-xã hội
a) Địa phương có trách nhiệm lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương;
b) Các bộ, ngành có trách nhiệm lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành;
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan hướng dẫn lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, kinh tế-xã hội.”
4. Công tác phòng chống thiên tai lấy phòng ngừa là chính, không ngừng nghiên cứu tác động của biến đổi của khí hậu toàn cầu, nước biển dâng và những hiện tượng bất thường khác của khí hậu để ứng phó phù hợp.
Vấn đề đặt ra:
Theo quy định của các điều ước quốc tế trong lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai và thực tiễn các nước cho thấy để công tác PCTT có hiệu quả cần chú trọng một cách thích đáng đến cả các bước của chu trình quản lý rủi ro thiên tai, đó là đánh giá, giám sát, cảnh báo rủi ro thiên tai, phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, chuẩn bị ứng phó, ứng phó khẩn cấp và tái thiết.
Tuy nhiên hiện nay, hoạt động PCTT ở Việt Nam chủ yếu chú trọng vào giai đoạn ứng phó và khắc phục hậu quả mà chưa tập trung vào các giai đoạn còn lại. Hoạt động liên quan đến công tác dự báo, cảnh báo và phòng ngừa còn có những khiếm khuyết. Đặc biệt ở những khu vực địa lý khó khăn, thông tin dự báo đôi khi còn không chính xác và kịp thời giảm hiệu quả của công tác phòng ngừa và ứng phó với thiên tai. Ở mức độ cộng đồng, người dân còn coi nhẹ tầm quan trọng của giai đoạn cảnh báo, giám sát, phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai. Chưa có những quy định cụ thể về các nghĩa vụ của người dân và doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu của chu trình quản lý rủi ro thiên tai trong các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên đất, nước, rừng; hoạt động xây dựng và giao thông. Việc quy hoạch và đánh giá tác động của các công trình thủy lợi còn chưa tính đến tất cả các yếu tố liên quan đến PCTT
Một số nội dung chính sách chính được đề cập trong dự án
Để khắc phục tình trạng nêu trên, Dự thảo Luật đã xây dựng Chương 2: Hoạt động phòng chống thiên tai, gồm 3 Mục với 23 điều, để quy định hoạt động phòng chống thiên tai theo ba giai đoạn: phòng ngừa; ứng phó; khắc phục hậu quả thiên tai.
5. Công tác phòng chống thiên tai phải phát huy và kế thừa kinh nghiệm truyền thống, kết hợp với kiến thức, công nghệ hiện đại và tăng cường hợp tác quốc tế.
Vấn đề đặt ra:
Những năm qua, Việt Nam đã tích cực hợp tác có trách nhiệm, có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã tham gia kí kết và tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto và Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu, Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ thiên tai, Hiệp định ASEAN về quản lí thiên tai và ứng phó khẩn cấp (AADMER) và Hướng dẫn Tuyên truyền trong nước về ứng phó và khắc phục hậu quả ban đầu sau thảm hoạ (Hướng dẫn IDRL).
Văn kiện quốc tế quan trọng nhất liên quan đến vấn đề giảm nhẹ rủi ro thiên tai/ thảm họa ở Việt Nam hiện nay là Hiệp định ASEAN về quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp (AADMER). Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 24/12/2009 và các quy định của nó có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các nước thành viên. Trong bối cảnh Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định, việc xây dựng luật về PCTT mang đến cơ hội tốt để Việt Nam nội luật hóa các quy định trong Hiệp định AADMER cũng như tăng cường sự hiểu biết về Hiệp định này trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác có liên quan đến PCTT. Do đó, các quy định trong Hiệp định AADMER và cách thức mà các quy định này được phản ánh trong luật mới về PCTT.
Một số nội dung chính sách chính được đề cập trong dự án
Nội dung về hợp tác quốc tế được thể hiện tại Điều 11 dự thảo Luật về Hợp tác quốc tế về phòng chống thiên tai:
“1. Hợp tác quốc tế về phòng chống thiên tai phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Ưu tiên các hoạt động hợp tác quốc tế về phòng chống thiên tai trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật; chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp tìm kiếm cứu nạn; hợp tác đầu tư, xây dựng, nâng cấp công trình phòng chống thiên tai.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối cung cấp thông tin về phòng chống thiên tai trong hoạt động hợp tác quốc tế.”
Theo duthaoonline.quochoi.vn




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét