Vận hành của các doanh nghiêp: Sự vận hành và các hoạt động bên trong doanh nghiệp để đáp ứng các tiêu chí liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn chưa được chú ý và quan tâm đúng mức (20% số doanh nghiệp đã thay thế và không sử dụng hóa chất độc hại, và chỉ có 14% doanh nghiệp không sử dụng hóa chất trong danh mục cấm).
Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa có các hoạt động hoặc biện pháp cụ thể để thực hiện, do thiếu hướng dẫn cụ thể, thiếu tổ chức dẫn dắt và thiếu cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ thực hiện các công tác này. Vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa hiểu hết được sự liên kết giữa TNXH và QLRRTT và chỉ có 36% doanh nghiệp được tập huấn xây dựng kế hoạch phòng ngừa và ứng phó với thiên tai và các kế hoạch này nói chung chưa đầy đủ và chi tiết theo yêu cầu. Nhìn chung, các doanh nghiệp chưa có thói quen lên kế hoạch cụ thể và cũng chưa có sự ủng hộ nhiệt tình từ lãnh đạo các doanh nghiệp để triển khai trên thực tế.
Cam kết của doanh nghiệp với việc thực hiện TNXH vẫn còn ở mức thấp: Đa số doanh nghiệp chưa có kế hoạch hỗ trợ nhân viên và gia đình họ, chưa có chương trình hỗ trợ cộng đồng trong phòng ngừa và ứng phó với thiên tai. Hỗ trợ chủ yếu cho đến nay vẫn là hưởng ứng các chương trình do các tổ chức ở địa phương phát động. Hỗ trợ cộng đồng phòng ngừa và ứng phó với rủi ro thiên tai:
Hỗ trợ từ thiện vẫn còn hoạt động một cách tự phát và chưa chuyên nghiệp: hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược và kế hoạch và vẫn chủ yếu là đóng góp tiền mặt và hỗ trợ khẩn cấp sau thiên tai (57% doanh nghiệp từng tham gia hỗ trợ cộng đồng trong thiên tai; 56% các doanh nghiệp hỗ trợ theo hình thức đóng góp ngày lương, thăm hỏi, tặng quà; 25% có hỗ trợ mang tính chất phòng ngừa: chủ yếu đóng quỹ phòng chống thiên tai).
Lập kế hoạch, mục tiêu và chiến lược hỗ trợ cộng đồng: Nhìn chung các doanh nghiệp đều không lập kế hoạch hỗ trợ cộng đồng. Các hoạt động được tiến hành và thực hiện một cách rất thụ động. Hầu hết việc quyết định hỗ trợ đều do giám đốc và ban giám đốc quyết định (về nội dung, hình thức, và số tiền hỗ trợ). Một số doanh nghiệp có sự tham gia tích cực của công đoàn và đoàn thanh niên thì có hỏi ý kiến nhân viên khi thực hiện các hoạt động này.
Khấu trừ thuế: Hiện nay ít doanh nghiệp thực hiện do quy mô và số tiền hỗ trợ còn ít và/hoặc không đáp ứng được thủ tục tài chính theo yêu cầu.
Sự tham gia của người lao động trong các hoạt động TNXH và hỗ trợ cộng đồng: Một tồn tại rất phổ biến là nhân viên thường biết rất ít về các nỗ lực thực hiện TNXH của chính doanh nghiệp mình (ví dụ họ không hề biết doanh nghiệp đang làm gì để xử lý chất thải hay giảm ô nhiễm tại nơi làm việc.) Vì không biết nên họ không quan tâm và cũng không đánh giá đúng những gì doanh nghiệp đang làm. Các hoạt động cứu trợ thiên tai, hầu hết người quyết định kế hoạch đều là giám đốc và ban giám đốc và giao nhiệm vụ cho một số phòng ban liên quan thực hiện, những người không liên quan chỉ tham gia đóng góp theo kêu gọi của ban giám đốc (thường là ủng hộ ngày lương, hoặc đóng góp quần áo, đồ dùng).
Theo dõi và đánh giá: Hầu hết doanh nghiệp không theo dõi và đánh giá kết quả hỗ trợ (68% không đánh giá, 11% không trả lời). Nói chung, thông tin về các hoạt động hỗ trợ của các công ty cũng không được lưu giữ cẩn thận và báo cáo rõ ràng.
Những thách thức khó khăn khi thực hiện TNXHDN ở Việt Nam:
Các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ) còn coi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là gánh nặng, là trách nhiệm phải thực hiện hơn là một cơ hội.
Quy mô Doanh nghiệp: Vừa và nhỏ chiếm 95%, nhiều Doanh nghiệp chuyển đổi từ Doanh nghiệp Nhà nước sang Doanh nghiệp Cổ phần, quy cách hoạt động vẫn chưa năng động, chưa thực sự thay đổi, nên khả năng thực hiện ở mỗi loại doanh nghiệp rất khác nhau.
Thiếu thông tin, vai trò định hướng dẫn dắt TNXHDN chưa rõ ràng nên vấn đề nhận thức và hiểu biết, tiếp cận và áp dụng tại các doanh nghiệp chưa đầy đủ. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc còn nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau gây lãng phí thậm chí làm sai lệch đi ý nghĩa của TNXHDN (ví dụ: Doanh nghiệp đóng góp tiền hỗ trợ từ thiện nhưng lại gây ô nhiễm phá hoại môi trường nhiều hơn số tiền đóng góp gấp nhiều lần hoặc thường xuyên xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và cộng đồng).
Tính minh bạch công khai, trách nhiệm giải trình trong TNXHDN và hỗ trợ từ thiện còn thấp: các doanh nghiệp có hệ thống các hệ thống báo cáo, ghi chép không đầy đủ và rõ ràng về các hoạt động và số liệu liên quan đến TNXHDN. Trong khi đó cơ chế kiểm tra giám sát việc tuân thủ TNXHDN rất chặt chẽ và yêu cầu minh bạch công khai cao. Đây thực sự là thách thức lớn đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về trách nhiệm giải trình cũng như năng lực tự kiểm tra giám sát đảm bảo tính công khai, minh bạch khi thực hiện TNXHDN.
Hiện nay các chính sách khuyến khích và thúc đẩy thực hiện TNXHDN còn thiếu. Thêm vào đó, vai trò của Hiệp hội ngành nghề, tổ chức công đoàn, giới truyền thông, người lao động còn hạn chế trong việc thực hiện TNXHDN.
Theo báo cáo "Khảo sát về TNXH trong lĩnh vực QLRRTT tại Việt Nam" của Trung tâm GD&PT




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét